Hỏi đáp Thuốc vườn nhà

Củ riềng và vị thuốc cao lương khương

Nguồn tin:  Thuốc vườn nhà
Cập nhật: 03/12/2011 06:38 SA

Hỏi:

Tôi nghe nói củ riềng có tác dụng làm ấm bụng và chữa bệnh đường ruột rất hay nên muốn biết rõ thêm về tác dụng và cách sử dụng củ riềng để chữa bệnh. Mong được "Thuốc vườn nhà" thông tin cho biết.

Nguyễn Thị Thúy Hằng, Gia Lâm - Hà Nội

Đáp:

riềng, củ riềng, tiểu lương khương, phong khương, Alpinia officinarum Hance, họ Gừng

Riềng

Cây riềng mọc hoang và được trồng ở khắp nước ta để làm gia vị và làm thuốc. Cây còn có tên là "tiểu lương khương", "phong khương", ... tên khoa học Alpinia officinarum Hance, họ Gừng.

Củ riềng trong các đơn thuốc Đông y thường gọi là "cao lương khương" hoặc "lương khương". Vị thuốc cao lương khương hay lương khương là thân rễ phơi khô của cây riềng. Có thể thu hái quanh năm, thường đào vào mùa thu đông hoặc sang xuân trước vụ mưa phùn. Chỉ cần đào về, rửa sạch đất, cắt bỏ lá và rễ con, vẩy lá rồi cắt thành từng đoạn 4-6cm, phơi khô là được.

Củ riềng được dùng cả trong Đông và Tây y làm thuốc kích thích tiêu hoá, giúp ăn ngon cơm, chữa đầy hơi, đau bụng, đau dạ dày, sốt rét, sốt nóng, đi lỏng, trúng hàn, nôn mửa.

Theo Đông y:

    - Cao lương khương vị cay, tính ấm; vào 2 kinh Tỳ và Vị. Có tác dụng ôn trung tán hàn (làm ấm đường tiêu hóa), giảm đau, tiêu thực. Chủ trị tỳ vị trúng lạnh, bụng lạnh đau, nôn mửa tiêu chảy, nghẹn, ăn vào thổ ngược ra (phản vị), thức ăn tích trệ, ngã nước sốt rét, ...

    - Theo quan niệm dược lý Đông y: Riềng và gừng khô (can khương) đều là những vị thuốc "ôn trung tán hàn" (chống lạnh, làm ấm đường tiêu hóa) quan trọng, nhưng mỗi vị thuốc lại có một số ưu điểm riêng. Ví dụ, chữa chứng dạ dày bị lạnh gây nôn mửa dùng riềng tốt hơn, còn trường hợp đau bụng ỉa chảy do nhiễm lạnh thì dùng gừng khô tốt hơn.

    - Ngày dùng 3-10g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hay rượu thuốc.

    - Kiêng kỵ: Người đau dạ dày do hỏa uất ở can vị kỵ dùng.

"Thuốc vườn nhà" xin giới thiệu một số đơn thuốc có sử dụng củ riềng:

    (1) Chữa đau bụng nôn mửa: Cao lương khương 8g, đại táo 1 quả. Sắc với 300ml nước, còn 100ml chia 2-3 lần uống trong ngày (Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam).

    (2) Chữa sốt, sốt rét, kém ăn: Cao lương khương tẩm dầu vừng sao 40g, can khương nướng 40g. Hai vị tán nhỏ, dùng mật lợn hoà vào làm thành viên, bằng hạt ngô. Ngày uống 15-20 viên này (Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam).

    (3) Chữa chứng chán ăn ở trẻ nhỏ: Dùng cao lương khương, trần bì, đại hoàng, bạch đậu khấu - tất cả dùng liều lượng bằng nhau, tán thành bột mịn, trộn với va-dơ-lin thành cao mềm. Mỗi lần dùng một thìa cà phê cao thuốc, phết lên miếng băng dính vuông (kích thước khoảng 4,5cmx4,5cm), đặt lên rốn rồi băng cố định lại, giữ cao thuốc 8-12 tiếng rồi bỏ ra; mỗi ngày 1 lần, liên tục 10 ngày.

        Đã thử nghiệm điều trị 300 ca, kết quả: 263 khỏi bệnh hoàn toàn, 28 chuyển biến tốt, 9 vô hiệu. Đại bộ phận bệnh nhi sau 5 ngày đã bắt đầu thấy thèm ăn (Hiện đại thực dụng trung dược học).

    (4) Chữa dạ dày lạnh đau: Dùng bài thuốc kinh điển "Lương phụ hoàn", thành phần gồm: Cao lương khương, hương phụ, hai thứ liều lượng bằng nhau, nghiền mịn, luyện với nước gừng và muối hoàn thành viên; ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 3-6g, chiêu thuốc bằng nước sôi (Lâm sàng thường dụng trung dược thủ sách).

    (5) Chữa dạ dày, hành tá tràng viêm loét đau nhức: Cao lương khương 9g, ngũ linh chi 6g, nghiền mịn, dùng rượu pha đồng tiện chiêu thuốc. Tuy nhiên không dùng được đối với trường hợp dạ dày bị xuất huyết nặng (Lâm sàng thường dụng trung dược thủ sách).

    (6) Chữa bụng đau quặn do nhiễm lạnh: Dùng bài thuốc cổ "Cao lương khương thang", thành phần gồm: Cao lương khương 12g, hậu phác 9g, đương quy 9g, quế tâm 2g, gừng tươi 9g; sắc nước uống trong ngày (Lâm sàng thường dụng trung dược thủ sách).

    (7) Chữa nôn mửa do vị hàn (vị hàn ẩu thổ): Dùng cao lương khương 9g, sao qua, nghiền thành bột mịn uống, chiêu thuốc bằng nước đun sôi.

    (8) Chữa nôn mửa do hư hàn (nôn mửa do cơ thể suy nhược, dạng hư hàn): Dùng cao lương khương 9g, phục linh 9g, đảng sâm 9g, sắc nước uống.

Lưu ý ngoài vị riềng nói trên, người ta còn dùng 2 loại riềng khác:

    1. Riềng nếp: Tên khoa học là Alpinia galanga Swartz (cùng họ Gừng), cũng được dùng làm gia vị và làm thuốc nhưng thường không quí bằng loại riềng nói trên. Thân rễ to thô bán tại thị trường với tên đại cao lương khương, dài 8-20cm, đường kính 1,5-3cm, màu nâu hồng nhạt, mùi vị không thơm như cao lương khương. Cũng có nơi dùng như cao lương khương: Chữa đau bụng, đi ỉa, nôn mửa, đi lỵ; phối hợp với than tóc rối, uống chữa ngộ độc thịt cóc.

    2. Gừng gió: Còn gọi là "riềng gió", "riềng dại", "ngải xanh", ... tên khoa học Zingiber zermbet Sm., cùng họ Gừng. Thường dùng chữa những trường hợp trong người thấy nôn nao, chóng mặt, muốn ngất xỉu. Còn dùng cho phụ nữ sau khi đẻ. Thường dùng thân rễ thái mỏng, ngâm trong rượu 40-50 độ với liều 40-50g tươi hay sấy khô trong một chai 650ml. Ngâm trong thời gian 15-20 ngày, gạn lấy rượu uống. Mỗi ngày dùng 2-3 ly nhỏ (mỗi ly 15-20ml).


Lương y HƯ ĐAN


Xin vui lòng ghi rõ nguồn "Thuốc vườn nhà - http://www.thuocvuonnha.com" khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố trách nhiệm:
Thông tin trên thuocvuonnha.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên thuocvuonnha.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

  Đơn vị bảo trợ thông tin

ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]