Trường hợp nào không uống chè đắng? 20/01/2013 8:16:37 CH
Thuốc vườn nhà

Hỏi:

Gần đây, khi đi khám sức khỏe định kỳ, bác sĩ phát hiện tôi hơi bị thừa cân và tăng mỡ máu. Có người mách, dùng chè đắng có thể cải thiện được những bệnh kể trên. Tuy nhiên, trước khi áp dụng tôi rất mong được "Thuốc vườn nhà" cho biết, với những trường hợp nào, thì không nên sử dụng chè đắng?

Trần Thị Mai, Đống Đa, Hà Nội

Đáp:

chè đắng, ché khôm, trà đinh, khổ đinh trà, trà đắng

Trà đắng mới xuất hiện trên thị trường nước ta khoảng 20 năm trước, nhưng đã nhanh chóng trở thành một loại nước uống "thời thượng", nhờ tác dụng phòng trị nhất định đối với các loại "bệnh thời đại", như mỡ máu cao, béo phì, tăng huyết áp, ... Tuy nhiên, thời gian gần đây, trên một số phương tiện truyền thông, có người đã cảnh báo, nếu sử dụng trà đắng làm nước uống hàng ngày, giống tập quán dùng chè xanh, nước vối, ... thì có thể dẫn đến những tác dụng phụ có hại, như dị ứng, nhiễm độc gan, viêm gan, vô sinh, thậm chí tử vong, ...

Vậy thì, trên thực tế thực hư thế nào?

Trà đắng sử dụng ở nước ta, chủ yếu được chế biến  từ lá non của cây chè đắng Cao Bằng, đồng bào địa phương gọi đó là "ché khôm". Trà đắng còn có tên là "trà đinh", vì lá chè hái về, thường được cuộn nhỏ lại như cái đinh. Tại Trung Quốc, trà đắng được sử dụng từ nhiều thế kỷ trước, gọi là "khổ đinh trà" ("khổ" = đắng, "đinh" = cái đinh). Tác dụng trị liệu của khổ đinh trà được ghi chép đầu tiên trong sách "Bản thảo phùng nguyên" do Trương Lộ biên soạn, ấn hành năm 1695. Khổ đinh trà ở Trung Quốc được chế biến từ lá và búp của nhiều loài cây khác nhau, nguồn gốc khá phức tạp, chủ yếu từ hai loài cây: Thứ nhất là cây "câu cốt", tên khoa học là Ilex cornuta Lindl. ex Paxt; thứ hai là cây "đại diệp đông thanh", tên khoa học là Ilex latifolia Thunb.

Chè đắng Cao Bằng cũng là một loài thuộc chi Ilex, tên khoa học là là Ilex kaushue S.Y. Hu, thuộc họ Trâm bùi (Aquifoliaceae).

Chi Ilex trên thế giới có khoảng 400 loài, ở Việt Nam có 40 loài, phân bố từ Nam ra Bắc. Tại Cao Bằng, chè đắng phân bố ở các huyện Hạ Lang, Thạch An, Quảng Hòa, Nguyên Bình, ... Ngoài ra, chè đắng Cao Bằng (Ilex kaushue S.Y. Hu) còn phát hiện ở Sa Pa (Lào Cai), Lạt Thủy (Hòa Bình ), Vườn Quốc Gia Cúc Phương (Ninh Bình), ...

Chè đắng Cao Bằng là loài cây bản địa, thuộc loại cây gỗ to, cao 10-15m; có những cây cổ thụ, đã trên trăm tuổi, cao hơn 20m, đường kinh thân gốc tới 120cm. Hiện nay, trà đắng đang được phát triển trồng và khai thác mạnh, tiêu thụ chủ yếu ở trong nước, còn xuất khẩu bán ở nhiều nơi. Riêng Công ty chè đắng Cao Bằng, cũng đã sản xuất ra nhiều loại sản phẩm như chè búp xoắn, chè tan, chè túi lọc, cốm trà đắng, ...

Theo Đông y: Trà đắng có vị khổ cam (đắng ngọt), tính đại hàn (rất lạnh); vào 3 kinh Can, Phế và Vị. Có tác dụng tán phong nhiệt (giải nhiệt), thanh đầu mục (tỉnh táo đầu óc), trừ phiền khát. Dùng chữa đau đầu, đau răng, đau mắt đỏ, ù tai, nặng tai, kiết lỵ, ...

Kết quả nghiên cứu tại một số cơ quan ở nước ta như Viện dược liệu, Đại học Dược Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Y Thái Nguyên, ... cho thấy: Trà đắng Cao Bằng có tác dụng phòng ngừa cao huyết áp, hạ mỡ máu, trợ tim, an thần, sát khuẩn, chống viêm, bảo vệ gan, giải độc, lợi mật, lợi tiểu, kích thích tiêu hóa, tăng cường sức đề kháng, ...

Tuy nhiên, trà đắng vẫn là một vị thuốc. Mà đã là thuốc, ắt có phần độc (dược hữu tam phân độc), nên khi sử dụng cũng có những nghi kỵ nhất định.

Như trên đã nói, theo quan điểm về dược lý của Đông y, trà đắng là loại thuốc có vị đắng và rất lạnh (đại hàn); thuộc nhóm thuốc "thanh nhiệt tả hỏa", nên dễ gây tổn thương dương khí và ảnh hưởng xấu đến chức năng tiêu hóa của tỳ vị. Do đó, một số trường hợp và đối tượng sau đây, nói chung không nên dùng chè đắng:

    1. Bị cảm lạnh: Mùa Đông là giai đoạn dễ bị cảm lạnh. Người bị cảm lạnh nên sử dụng những loại thức ăn và đồ uống có tính ôn nhiệt (ấm nóng) như gừng, quế, tía tô, kinh giới, ... để có thể trừ khử khí lạnh trong cơ thể. Nếu bị cảm lạnh, mà lại uống trà đắng, ắt sẽ cản trở quá trình phát tán phong hàn; sẽ khiến bệnh kéo dài, hoặc có thể dẫn đến những biến chứng ngoài sự mong muốn.

    2. Người tạng hàn (thể chất hư hàn): "Hư hàn" còn gọi là "dương hư". Đó là tình trạng dương khí của cơ thể bị thiếu hụt, quá trình chuyển hóa, sưởi ấm, hóa sinh, phòng vệ, ... đều bị giảm sút ở mức độ nhất định. Đặc điểm nổi bật nhất của người tạng hàn (thể chất hư hàn) là rất sợ lạnh; mùa đông là chân tay lạnh ngắt. Ngoài ra còn thường có những biểu hiện như tinh thần uể oải, người mệt mỏi, sắc diện nhợt nhạt, vã mồ hôi (tự hãn), tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng nhão, đau bụng ỉa chảy; chất lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng nhớt, ... Người tạng hàn nên sử dụng nhiều những loại thứ ăn ấm nóng, như thịt dê, thịt chó, ... cũng vẫn không sợ bị "bốc hỏa". Thế nhưng, sau khi uống trà đắng vào, thì cảm giác sợ lạnh sẽ tăng lên nhiều; nói chung không có lợi đối với việc cải thiện thể chất. Thậm chí, mỗi khi uống vào, là sẽ bị đau bụng ỉa chảy.

    3. Viêm dạ dày, người già và trẻ nhỏ: Nói chung, ở những người bị viêm dạ dày - ruột mạn tính, thường có những biểu hiện mà Đông y gọi là "tỳ vị hư hàn", khi  bụng bị nhiễn lạnh hoặc ăn loại thức có tính hàn lương, rất dễ bị đau bụng ỉa chảy. Uống trà đắng, sẽ khiến các chứng trạng hư hàn càng thêm trầm trọng. Người cao tuổi dương khí đã suy, hoặc trẻ nhỏ dương khí vẫn còn non nớt, nói chung không nên uống trà đắng; vì uống trà đắng vào, dễ dẫn đến những tác dụng phụ bất lợi, như rối loạn tiêu hóa hoặc đau bụng ỉa chảy.

    4. Phụ nữ đang hành kinh: Cơ thể phụ nữ trong thời gian hành kinh, đang ở trong trạng thái mất máu, sức đề kháng của cơ thể những ngày này nói chung giảm xuống. Nếu uống trà đắng, một loại nước uống có tính đại hàn, dễ dấn tới tình trạng khí huyết ngưng kết, kinh huyết khó bài xuất ra ngoài, gây nên thống kinh (đau bụng khi hành kinh), thậm chí có thể gây rối loạn kinh nguyệt. Còn những phụ nữ bị mắc bệnh thống kinh, ngay cả trong những ngày bình thường, khi không có kinh, nói chung cũng không nên sử dụng trà đắng.

    5. Sản phụ mới sinh đẻ: Phụ nữ vừa mới sinh con, cơ thể còn đang suy nhược, nói chung nên dùng nhiều thức ăn hoặc vị thuốc có tính ôn bổ. Trà đắng có tính đại hàn, không những không có lợi đối với sự phục hồi của tử cung, mà còn có thể gây tổn thương tỳ vị (chức năng tiêu hóa). Rất dễ dẫn đến tình trạng bụng lạnh đau triền miên, rất khó chữa khỏi.
Cuối cùng, cũng nên lưu ý thêm một điều, theo "Trung Dược đại từ điển", thực nghiệm trên động vật cho thấy, khổ đinh trà (trà đắng) có tác dụng chống thụ thai ở chuột, với hiệu suất lên tới 80-90%. Do đó chị em phụ nữ đang có thai hoặc chuẩn bị có con, tốt nhất là không nên sử dụng.

Lương y HUYÊN THẢO