Đại Danh y Thiền sư Tuệ Tĩnh (Kỳ 1) 02/07/2013 9:23:55 SA
Thuốc vườn nhà

tuệ tĩnh, tuệ tĩnh thiền sư, đại danh y tuệ tĩnh thiền sư, đại danh y tuệ tĩnh, thánh thuốc nam


THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA

ĐẠI DANH Y THIỀN SƯ TUỆ TĨNH (1623? - 1713)

(Những điều được mọi người thống nhất đồng tình)


    Để đánh giá, chúng tôi so sánh những điều được mọi người thống nhất về thân thế và sự nghiệp của đại Danh y Thiền sư Tuệ Tĩnh với một vị Danh y khác cũng của nước ta là Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác:

    1. Về mặt thời gian mà xét thì Tuệ Tĩnh sống và hoạt động trước Hải Thượng Lãn Ông ít nhất 1 thế kỷ (100 năm) nếu ta theo những người cho Tuệ Tĩnh sống và hoạt động ở thế kỷ 17, hoặc là trước Hải Thượng Lãn Ông 4 thế kỷ nếu theo truyền thuyết Tuệ Tĩnh sinh và hoạt động ở thế kỷ 14. Hải Thượng Lãn Ông (1720 - 1791) sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý (năm 1720) (Theo báo cáo của Hội thảo về Hải Thượng Lãn Ông ở Hải Hưng năm 1993 thì Hải Thượng Lãn Ông sinh năm 1724 và mất năm 1791 - Tạp chí Sống vui khỏe số 18 năm 1995, trang 12) và mất ngày 15 tháng Giêng năm Tân Hợi (năm 1791) còn Tuệ Tĩnh sinh vào năm 1623 hoặc 1633 và mất vào năm 1713 (thọ 90 hoặc 80 tuổi).

    2. Tuệ Tĩnh là tác giả hai bộ sách "Nam dược thần hiệu" và "Hồng nghĩa giác tư y thư". Đặc biệt, Tuệ Tĩnh là người thầy thuốc Việt Nam đầu tiên, đã giương cao ngọn cờ "Thuốc Việt Nam chữa người Việt Nam".

    Bộ sách "Hồng nghĩa giác tư y thư" của Tuệ Tĩnh được mở đầu với câu tuyên ngôn:

"Tôi tiên sư kính đạo tiên sư

Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt"

    Tôi ở đây có nghĩa là đầy tớ, học trò của thầy (tiên sư). Hoặc câu:

"Thiên thư riêng định cõi Nam

Thổ sản khác nhiều xứ Bắc ..."

có thể coi như bản tuyên ngôn về thuốc Việt Nam ta. Chúng ta cần nhớ rằng hơn 100 năm sau, Hải Thượng Lãn Ông trong bộ sách "Y tông tâm lĩnh" có quyển "Lĩnh Nam bản thảo" thì phần đầu lấy hoàn toàn ở tập "Nam dược thần hiệu" mà không hề ghi rõ xuất xứ.

    3. Tuệ Tĩnh là một vị sư và là một thầy thuốc rất gần gũi quần chúng cho nên hầu hết tài liệu Tuệ Tĩnh biên soạn đều bằng chữ Nôm (chữ viết như chữ nho, chữ hán nhưng đọc theo âm tiếng Việt dễ hiểu) lại viết theo kiểu văn vần thơ phú cho nên đọc lên dễ nhớ, dễ thuộc.

    Do đó ngay khi Tuệ Tĩnh còn sống, những tài liệu do Tuệ Tĩnh viết ra đã được in đi, in lại nhiều lần: "Sách viết xong, khắc thành bản in, để ở chùa Hộ xá, huyện Giao Thủy, người địa phương biết được đường hướng chữa bệnh, lưu truyền đến nay tiếng tăm vang lừng khắp nơi" (Trích từ "Hồng nghĩa giác tư y thư" in năm 1717).

    Trong khi đó, sách của Hải Thượng Lãn Ông viết và hoàn thành từ trước 1791, toàn bằng chữ nho, vừa dày vừa phải dịch ra tiếng Việt mới hiểu được, nên trong suốt thời gian Hải Thượng Lãn Ông còn sống, sách vẫn chưa được in ra. Phải chờ đến gần 100 năm sau khi Hải Thượng Lãn Ông đã mất, sách mới được in ra (năm 1885).

    4. Năm 1717 (tức năm Vĩnh Thịnh thứ 13) có thể coi như năm vinh quang đối với Tuệ Tĩnh vì vào "mùa Xuân năm Đinh Dậu (năm 1717), nhà sách Liễu Tràng đem bản sách (của Tuệ Tĩnh) dâng lên vua ..." (xem lời tựa "Hồng nghĩa giác tư y thư").

    Cũng trong năm 1717 bia chù Giám được sư Như Ứng (học trò của Tuệ Tĩnh) dựng bia ghi công Tuệ Tĩnh đã có công đắp tượng phật 24 tay, nhưng chưa kịp dựng bia thì Tuệ Tĩnh đã mất vào năm Quý Tỵ (năm 1713).

    Biết được năm mất, ta có thể suy ra năm sinh: Cho rằng Tuệ Tĩnh sống 100 tuổi thì năm sinh là 1613, nếu sống 90, 80 tuổi thì năm sinh 1623 hoặc 1633 tức là vào đầu thế kỷ 17.

    Nhưng trước khi phát hiện sự kiện Tuệ Tĩnh mất ở Việt Nam chứ không phải ở Trung Quốc như truyền thuyết, năm mất của Tuệ Tĩnh được ghi trong tấm bia năm 1717 ở chùa Giám, những người theo truyền thuyết Tuệ Tĩnh sinh và hoạt động ở thế kỷ 14 vẫn viết: "... khi còn ở trong nước Tuệ Tĩnh đã tu sửa, xây dựng 24 ngôi chùa, trong đó có chùa Hải Triều ở làng Yên Trang (nay là chùa Giám ở xã Cẩm Sơn hiện còn di tích)"; hoặc có người lại nói: "Có hai Tuệ Tĩnh, một Tuệ Tĩnh chỉ đi tu ghi trong bia chùa Giám là Sa môn Chân An Giác Tính Tuệ Tĩnh Thiền sư, và một Tuệ Tĩnh vừa đi tu vừa làm thuốc viết sách thuốc mang tên đầy đủ Vô Dật, Tráng Tử, Thận Trai Tuệ Tĩnh Thiền sư".

    Như vậy sẽ đẻ ra một tranh luận mới "có một hay hai Tuệ Tĩnh?" chúng tôi sẽ đề cập đến sau.

    5. Trong lúc Tuệ Tĩnh còn đang sống, ảnh hưởng và uy tín của Tuệ Tĩnh đã rộng lớn như vậy, nên đến khi Tuệ Tĩnh mất đi, chỉ trong một vùng bán kính chưa đầu 3km có tới 4 nơi thờ:

    5.1. Chùa Giám: Tức là chùa Yên Trang hay An Trang hay Hải Triều là nơi Tuệ Tĩnh tu vào cuối đời và mất năm Quý Tỵ (năm 1713). Có bức tượng Tuệ Tĩnh tạc năm 1936 - 1939 (theo lương y Thái Văn Liên trong thời gian này làm việc tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội).

    5.2. Đền Thánh thuốc Nam: Đặt ngay trong làng Nghĩa Phú, quê hương của Tuệ Tĩnh.

    5.3. Đền Bia: Đặt giữa hai làng Nghĩa Phú và Văn Thai (nơi đây đã xảy ra hai lần chẩy hội thuốc thánh đền Bia).

    5.4. Đền Trung: Đặt ở chân đê làng Văn Thai.


    6. Hai lần hiển thánh để chữa bệnh cho dân:

    Ảnh hưởng và uy tín của Tuệ Tĩnh khi còn đang sống lớn như vậy, nên đến khi mất đi từ năm 1713, nhân dân trong vùng cũng như cả nước vẫn tin tưởng về khả năng chữa bệnh bằng thuốc Nam của Tuệ Tĩnh. Những người bệnh hay gia đình người bệnh quanh vùng hoặc ở nơi xa đến thường đem vàng hương và một vài bó lá hái sẵn ở nhà hay ở sân các đền thờ Tuệ Tĩnh (đền Bia là nơi được dân tìm đến đông nhất). Sau khi thắp hương cầu khẩn Tuệ Tĩnh phù hộ người bệnh, họ đem bó lá ấy về sắc cho người bệnh uống là khỏi bệnh. Phong tục này mang màu sắc mê tín thường diễn ra không được mấy người chú ý, nhưng trong các văn kiện lịch sử có hai lần sự kiện này nổi lên quá lớn nên được ghi lại trong sử sách:

    Lần thứ nhất vào năm 1846, sách "Đại Nam thực lực chính biên" có ghi như sau: "... vào tháng 10 năm Thiệu Trị thứ 6 (năm 1846) xã Văn Thai thuộc huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương gần đây được cái bia đá cổ ngoa truyền (Đỗ Tất Lợi gạch dưới) là Tuệ Tĩnh Thiền sư giáng thế (1) (Thiền sư là người Nghĩa Phú huyện Cẩm Giàng) lấy thuốc Nam chữa khỏi bệnh, gần xa tranh nhau đến cầu xin, hàng ngày kể đến hàng 100, hàng 1000, quan tỉnh ấy không thể nào cấm được, đem việc ấy tâu lên Vua về việc nhân dân lễ bái xin thuốc và xin phong thần cho Tuệ Tĩnh. Vua Thiệu Trị phê vào đơn ấy như sau: "Hà vật tăng nhân vạn dân la bái" (nhà sư ấy là người thế nào mà được hàng vạn nhân lễ lậy) và hạ chiếu cấm chỉ việc lễ bái và xin thuốc đền Bia để bỏ sự mê hoặc cho dân. Theo lệnh đó người ta đục chữ ở bia đi và đem bia bỏ vào nhà kho của tỉnh Hải Dương, từ đó sự đi lại cầu xin thuốc mới hết.". (Trích ở sách Đại Nam thực lục chính biên dịch ra tiếng Việt do NXBKHXH năm 1972, trang 171 - 172).

    Lần thứ hai, Tuệ Tĩnh "hiển thánh" xẩy ra vào năm Bảo Đại thứ 11 (năm 1936) trong hoàn cảnh như sau: "Có một người quê ở làng Văn Thai làm chức coi kho tỉnh Hải Dương, thấy được tấm bia đó vứt trong kho từ thời Thiệu Trị, bèn lấy trộm đưa về làng, dựng lại bia ở chùa Văn Thai, lấy gạch xây kín xung quanh để dấu trong chùa". Thực chất câu chuyện chỉ có vậy nhưng được một số người có chức sắc ở làng Văn Thai lợi dụng tung tin là Tuệ Tĩnh sống lại để chữa bệnh cho nhân dân.

    Thế là một đồn mười, mười đồn trăm, câu chuyện thuốc thánh đền Bia thời Thiệu Trị lại tái diễn kéo dài 4 - 5 năm. Sách báo, các nhà văn nói đến rất nhiều: Nhà văn Vũ Trọng Phụng viết trong "Số đỏ", nhà văn Nguyễn Trọng Thuật nhà báo "Đuốc Tuệ" của Hội Phật giáo ghi lại, một điều mà xưa nay chưa có một thầy thuốc nào ở nước ta có được sự tin tưởng của nhân dân như vậy trong lúc Tuệ Tĩnh còn đang sống cũng như sau khi mất, kể cả thầy thuốc Hải Thượng Lãn Ông sống và hoạt động, sống sau gần một thế kỷ.

Chú thích (1): Độc giả có thể tìm đọc bài "Thuốc thánh đền Bia" của nhà văn Nguyễn Trọng Thuật trong báo "Đuốc Tuệ" của Hội Phật giáo Việt Nam số 31 ra ngày 17/07/1963 trang 20-24 còn lưu giữ ở Thư viện Quốc Gia Hà Nội.


NHỮNG ĐIỀU KHÔNG AI CHỐI CÃI ĐƯỢC

    Trong lịch sử ngành Y Dược học cổ truyền của nước ta có hai thầy thuốc lớn có các tác phẩm để lại, đó là đại Danh y Thiền sư Tuệ Tĩnh (tác giả "Hồng nghĩa giác tư y thư" và "Nam dược thần hiệu", …) và Hải Thượng Lãn Ông (tác giả "Y tông tâm lĩnh").

    E.Gaspardone, nhà thư mục nổi tiếng người Pháp đã viết trong sách "Thư mục Việt Nam" (Bibliographie annamite) - Tạp chí của Trường Viễn Đông Bác Cổ, năm 1934, về Tuệ Tĩnh như sau: "Có thể nói không quá đáng rằng Tuệ Tĩnh là người sáng lập thật sự ra nghề thuốc Việt Nam, về sau Hải Thượng Lãn Ông là người tuyên truyền rất có hiệu quả cho nghề này".

    Trước cách mạng Tháng 8 năm 1945, chỉ một số lương y, nhà thơ, nho học biết đến Hải Thượng Lãn Ông, nhưng Tuệ Tĩnh được rất nhiều người biết đến, được nhân dân coi là vị "Thánh thuốc Nam" được nhân dân quanh vùng Nghĩa Phú, Văn Thai, quê hương của Tuệ Tĩnh thờ phụng. Riêng đền Bia được cả nước biết đến vì hai lần do lòng sùng bái, người ta đồn đại Tuệ Tĩnh tái sinh để dùng thuốc Nam chữa bệnh cho dân.

    Thế nhưng hiện nay, chỉ có Hải Thượng Lãn Ông hàng năm được ngành Y tế kỷ niệm và cứ 5 năm cả nước lại kỷ niệm, còn Tuệ Tĩnh thì hầu như bị lãng quên, hầu như không được ai nhắc đến, người ta chỉ nói ghé vào một đôi lời.

    Tại sao lại như vậy nhỉ, phải chăng người ta còn tranh luận xem Tuệ Tĩnh sinh và hoạt động ở thế kỷ 14 hay thế kỷ 17? Tuệ Tĩnh có đậu Hoàng giáp? Tuệ Tĩnh có sang Trung Quốc? Có chữa bện cho vua Trung Quốc và mất ở Trung Quốc không? Sự thật như thế nào? Chúng tôi xin góp phần trao đổi một số vấn đề trên.


LỜI TỰA SÁCH "HỒNG NGHĨA GIÁC TƯ Y THƯ"

Lời tựa này do các quan Thị nội phủ chúa Trịnh và các quan Y viện duyệt lại và bổ sung vào ngày tốt tháng Quý Hạ, năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (năm 1717).

    Trời Nam mở nước, người làm thuốc kể có hàng trăm nghìn người nhưng hỏi đến người chép sách lập ngôn để giảng dạy cho người sau thì như leo lên ngọn cây mà tìm cá vậy. May có bậc lão túc (thầy già học giỏi) biệt hiệu Tuệ Tĩnh, người làng Nghĩa Phú, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, là một vị sư cụ, nghiên cứu rộng về học thuyết Âm Dương, tìm hiểu sâu về bí truyền Kỳ Biển, chép ra bộ bản thảo bằng Quốc âm có hơn 630 vị, lại theo kinh nghiệm đem 13 phương chữa tạp bệnh và 37 cách chữa thương hàn dịch ra thành sách, chỉ đường mở lối, dạy bảo mọi người, thật là cả một tấm lòng nhân hậu. Sách viết xong khắc thành bản in, để ở chùa Hộ Xá, huyện Giao Thủy, người địa phương biết được đường hướng chữa bệnh, lưu truyền đến nay, tiếng tăm vang lừng khắp nước.

    Mùa Xuân năm Đinh Dậu (năm 1717) nhà sách Liễu Tràng (giống như nhà xuất bản nay - lời Đỗ Tất Lợi) đem bản sách dâng lên vua, vua xem thấy bản khắc còn nhiều thiếu sót, mới sai các Thái y xét duyệt, chỗ nào sai thì chữa lại, chỗ nào lộn thì chuyển di, sắp xếp thành chương mục thứ tự, chia làm 2 quyển thượng hạ.

    Khi sách đã chỉnh đốn xong, vua đặt tên cho là "Hồng nghĩa giác tư y thư" giao cho nhà in xuất bản để công bố cho trong nước, đó là ban ơn cho thiên hạ rất nhiều, đưa mọi người lên cõi thọ, đưa đời sống đến đền xuân, thật là bổ ích không phải nhỏ.

    Chúng tôi vâng chiếu chỉ Vua, vui thấy bộ sách đã làm xong, nên kể ngọn ngành để làm tựa.

    Đọc lời tựa do các quan Thị nội vụ phủ chúa Trịnh và các quan Y viện cũng thuộc phủ chúa Trịnh viết năm 1717, thì:

    1. Tuệ Tĩnh chỉ là một vị sư cụ nghiên cứu rộng về học thuyết Âm Dương, tìm kiếm sâu về bí truyền Kỳ Biển, viết ra bộ bản thảo bằng Quốc âm có hơn 630 vị thuốc, soạn ra bộ sách giới thiệu 13 đơn thuốc chữa tạp bệnh và 37 đơn thuốc chữa bệnh thương hàn (Thập tam phương gia giảm và Tam thập thất trùy pháp). Sách được in ra từ trước nhưng có nhiều lỗi. Nên chúa Trịnh chỉ thị cho sửa, sắp xếp lại và đặt cho bộ sách một tên mới "Hồng nghĩa giác tư y thư".

    2. Trong lời tựa mặc dầu công nhận Tuệ Tĩnh là vị sư già học giỏi, nhưng không hề nói đến học vị Tiến sĩ hay đậu Hoàng giáp như truyền thuyết. Thêm vào đấy cố Hội trưởng Hội Y học cổ truyền Nguyễn Sĩ Lâm, trong một hội thảo về Tuệ Tĩnh, đã cho biết trong thời gian này, Nguyễn Danh Nho một vị Tiến sĩ cùng quê hương Nghĩa Phú đang giữ một trọng trách tương đương Bộ trưởng Bộ văn hóa trong phủ chúa Trịnh, có trách nhiệm xem xét mọi văn kiện trước khi đưa chúa Trịnh ký duyệt, biết rất rõ Tuệ Tĩnh có đỗ Tiến sĩ hay không, mà các vị Ngự y không ghi, nhất định Nguyễn Danh Nho không để yên. Cho nên không thấy có ý kiến gì, chúng tôi cho rằng Tuệ Tĩnh học giỏi văn hay nhưng không hề đi thi, đỗ đạt gì cả.

    3. Tựa sách "Ngoại cảm thông trị" của Hải Thượng Lãn Ông (Tựa này được viết vào năm Cảnh Hưng năm Quý Hợi (năm 1743)): Niên hiệu Cảnh Hưng năm Quý Hợi (năm 1743) tôi ngẫu nhiên cùng vị đạo sĩ Bút phong là người cùng làng và mấy thấy toán số khác cùng ngồi nói chuyện phiếm ở Hà-nhĩ-trai nhân đề cập tới 3 vấn đề Địa lý, Y mạch và Toán số, ... có người nói đến chuyện nước ta mới có quyển "Thập tam phương gia giảm" ... ai nấy đều khen hay.

    Tôi nói: Đó là sư ông Tuệ Tĩnh do tấm lòng sáng suốt, tìm ra một lối dễ dàng trong phương pháp sử dụng dược phẩm và gia giảm các bài thuốc. Tuy chưa ra ngoài được phạm vi của người xưa, nhưng đem in thành sách để lưu hành thời giúp cho người ít học rất nhiều, và cũng là một "nhân thuật" đáng kể. Nhưng bệnh tình, bệnh chứng thiên hình vạn trạng, trong sách nói ... "Nghề làm thuốc rất khó" và "phương là do sự bắt chước mà đặt ra ..." nếu không phải là người học rộng, tài cao thì không sao biết được.

    Tôi vừa nói hết lời, trong đám người ngồi, có người đưa ra một quyển sách nhan đề là "Lãn Ông ngoại cảm thông trị" (chắc chắn là một quyển chép tay - chú thích của Đỗ Tất Lợi) và cất tiếng hỏi:

    "Quyển này có phải là học mót ý thừa của quyển kia chăng?".

    Tôi vội trả lời:

    Ông nhầm rồi, nhầm rồi.

    Liền đón đỡ lấy xem một lượt, thấy nội dung quyển sách đó, nào là bài bác phép lệ cổ, biện thuyết 6 kinh truyền biến là nhầm, bàn nước ta không có chứng thương hàn, ôn nhiệt ... cho đến nhận đúng tình hình Âm hư khó bổ và nói rõ thương hàn có thể dùng phép bổ, ... Phàm những dụng ý xử phương tuy là thay đổi dược phẩm của cổ phương mà không trái đại ý của cổ phương. Tuy thu vào trong có một quyển các "Cao, đơn, hoàn tiễn của các nhà đều có đủ", thật là "thay hình đổi dạng, bỏ thô lấy tinh" hợp mọi đường làm một lối, dồn muôn ngòi về bể cả ... khiến học giả được lợi về giản ước, tránh cái phiền về phức tạp, xem một lượt có thể hiểu suốt. Lại bàn thêm cả phương pháp thế nào là hư, thế nào là thời bổ, ... đầy đủ chi tiết. Phàm các chứng cảm mạo trong bốn mùa và các chứng thuộc lục dâm (6 thứ khí quá mức) hư thực bổ tả, ... đều bao quát không sót. Thật đáng là một sách quý trong y giới ... xem xong tôi gật đầu bảo mọi người:

    Các ngài đem quyển này mà so với quyển kia, có khác chi một trời một vực?

    Tôi liền viết mấy lời đề trên sách. Bút phong đạo nhân và mọi người đều công nhận là đúng. Nhân đó thay làm lời tựa.

Ngự y Chính Mặc Trai thái thị đề

    Theo lời "Tựa" thì Tựa này được viết vào năm 1743. Đối chiếu với nội dung tấm bia chùa Giám, thì Tuệ Tĩnh đã mất từ năm 1713 (năm Quý Tỵ) nghĩa là sau khoảng 30 năm Tuệ Tĩnh vắng mặt trên trái đất này mà sách "Thập tam phương gia giảm" của Tuệ Tĩnh vẫn ... có người nói đến chuyện nước ta mới có quyển "Thập tam phương gia giảm" ai nấy đều khen hay ... đó là sư ông Tuệ Tĩnh do tâm lòng sáng suốt tìm ra một lối dễ dàng trong phương pháp sử dụng dược phẩm và gia giảm các bài thuốc. Tuy chưa ra ngoài được phạm vi của người xưa nhưng đem in thành sách để lưu hành, thời giúp cho những người ít học rất nhiều và cũng là một "nhân thuật" đáng kể ... Còn quyển "Lãn Ông ngoại cảm thông trị" nói ở đây hay còn ở giai đoạn chép truyền tay nhau vì mãi đến năm 1885 (năm đầu niên hiệu Hàm Nghi) sách mới được in ra.

    Sách "Thập tam phương gia giảm" của Tuệ Tĩnh còn được ghi lại trong "Hải Dương phong vật chí" (Thư viện Hán nôm số A-88 và A822) do Trần Duy Phác (1754 - 1834) hiệu Đạm Trai, người làng Bình Vọng, huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây, đậu Hương cống năm 1777 (Cảnh Hưng, Đinh Dậu) và thi hội đậu Tam trường, nhưng gặp loạn phải ở nhà. Năm 1804 (năm Gia Long thứ 3) được triệu ra làm trợ giáo tỉnh Hải Dương và Quảng Yên. Năm 1809 (năm Gia Long thứ 8) được thực thụ chức ấy, đến 1812 (năm Gia Long thứ 11) thăng Đốc học Thanh Hóa tước Phác Ngọc Bá.

    Trong thời gian ở Hải Dương, Trần Duy Phác đã soạn sách "Hải Dương phong vật chí" trong đó dành cho Tuệ Tĩnh mấy dòng như sau: "Tuệ Tĩnh tiên sinh, Danh y ở xã Nghĩa Phú, huyện Cẩm Giàng chuyên dùng thuốc Nam chữa bệnh cứu người rất công hiệu", có chép "Sách chỉ dẫn dùng thuốc Nam" và "Thập tam phương giả giảm" lưu truyền trong dân gian.


BIA CHÙA GIÁM VỚI THIỀN SƯ TUỆ TĨNH

Hà Văn Tấn (Viện trưởng Viện Khảo cổ học)

    Thiền sư Tuệ Tĩnh, tác giả "Nam dược thần hiệu" và "Hồng nghĩa giác tư y thư", theo ý kiến truyền thống, là Danh y sống vào thế kỷ 14 đời Trần.

    Nhưng đã có một số ý kiến cho rằng nhà sư sống vào cuối thế kỷ 17. Chứng cứ đưa ra bao gồm nhiều mặt: Phân tích những bài Phú Nôm trong cách sách của ông có nhiều yếu tố muộn; trong các bài thuốc mà ông nêu lên chứng tỏ chịu ảnh hưởng của các Danh y Trung Quốc đời sau, chẳng hạn Lý Thời Trân.

    Trong những chứng cứ đưa ra, có người đã viện dẫn tấm bia năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (năm 1717) ở chùa Giám, nơi quê hương của Tuệ Tĩnh và cho rằng đến năm này, Tuệ Tĩnh vẫn còn sống ở đây.

    Để làm sáng tỏ những vấn đề thời đại của Tuệ Tĩnh, ngày 22/07/1992, một đoàn nghiên cứu gồm các cán bộ Viện Khảo cổ học, Viện Hán Nôm, Giáo sư Dược học Đỗ Tất Lợi đã về khảo sát tại chùa Giám ở huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Hưng (1).

    Chùa Giám có tên chữ là Nghiêm Quan Tự, trước đây vốn ở thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Giàng, huyện Cẩm Bình, tức quê hương của Thiền sư Tuệ Tĩnh như đã chép trong các sách.

    Nhưng từ năm 1971, do đất xã này bị ngập nước, nhân dân xã đã di cư vào xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Bình và đã dời luôn cả nghè và chùa của xã về đây. Toàn bộ ngôi chùa đã được dựng lên ở đất mới trong vị trí đúng trật tự như đã có ở nơi cũ. Điều đáng khâm phục là toàn bộ các bia đá rất nặng cũng được dời về đây. Trong số gần 20 tấm bia ở đây, có rất nhiều bia đời Lê, có niên hiệu từ Chính Hòa đến Vĩnh Thịnh.

    Rất may là tấm bia Vĩnh Thịnh thứ 13 (năm 1717) vẫn còn nguyên vẹn. Bia này có 4 mặt, chữ lớn đề tên bia cũng chạy quanh 4 mặt "Nghiêm Quang thiền tự danh lam cổ tích hưng công cấu tác thánh tượng bi ký". Dòng ghi niên đại của bia ở mặt cuối: "Vĩnh Thịnh thập tam niên tam nguyệt thập nhị nhật" (Vĩnh Thịnh năm thứ 13, tháng 3 ngày 12). Ngay dòng đầu bia cho biết người làm bia là Sa di tự Như Ứng hiệu Tuệ Phái.

    Bia nói về những lần tạo tượng ở trong chùa. Trước hết là nói đến lần đúc tượng Quan Âm 24 tay vào năm Tân Mão (năm 1711). Sau khi hoàn thành, chùa lập bia thì nghiêm sư đã tịch. "Nghiêm sư" đó là ai? Trong danh sách những người bỏ công của để làm việc này, ta gặp dòng đầu ghi "Hưng công hội thủ sa môn Chân An Giác Tính Tuệ Tĩnh Thiền sư". Như vậy là Thiền sư Tuệ Tĩnh, có cái tên đầy đủ là Chân An Giác Tính Tuệ Tĩnh, đã đứng đầu trong việc đúc tượng Quan Âm năm 1711. Có người cho là Tuệ Tĩnh vẫn còn sống vào năm lập bia tức năm 1717. Nhưng điều này không đúng. Lúc đó ông đã chết. Vậy ông chết vào năm nào.

    May thay ở mặt bia bên cạnh có câu ghi rõ "Quý Tỵ niên tôn sư tịch mịch, tư niên thần đệ tử trụ trì tăng Sa di tự Như Ứng hiệu Tuệ Phái kiến lập sao văn tự lưu truyền cổ tích dĩ hậu lai tri" (Năm Quý Tỵ tôn sư tịch, năm đó đệ tử là sư trụ trì Sa di tự là Như Ứng hiệu là Tuệ Phái dựng (bia) sao lại bài văn để lưu truyền dấu xưa cho mai sau biết). Vậy là có thể biết Tuệ Tĩnh mất năm Quý Tỵ tức năm 1713.

    Chúng tôi chưa có thì giờ đọc hết những bia đời Lê ở đây, chắc là còn có thể tìm ra được những sự kiện liên quan đến Tuệ Tĩnh. Đáng mừng là trên một cây hương (cột thiên đài) bằng đá dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 2 (năm 1706) có dòng chữ "Hưng công hội thủ uẩn tồn Tây thổ tự ấu xuất gia tiệm tu giới hạnh Trúc Lâm đầu đà Ma ha tỉ khâu Chỉ Ngu hòa thượng sa môn Chân An".

    Chân An, như ta đã thấy, tức Tuệ Tĩnh. Qua câu chuyện này ta thấy Tuệ Tĩnh đã xuất gia từ bé. Như vậy, là không có chuyện ông đi học, làm quan, rồi mới xuất gia và chết ở Trung Quốc như truyền thuyết đã nói.

    Chân An Tuệ Tĩnh tự gọi là Trúc Lâm đầu đà, có nghĩa là muốn coi mình thuộc phái Trúc Lâm. Nghiên cứu lịch sử Phật Giáo, ta biết rằng bấy giờ phái Lâm Tế thường muốn gắn với phái Trúc Lâm thời Trần. Theo cách đặt tên của phái Lâm Tế thì thế hệ mang chữ Chân là ở trên thế hệ mang chữ Như. Chân An là thầy của Như Ứng cũng như Chân An là thầy của Như Trừng.

Chú thích (1): Đoàn gồm có Đỗ Tất Lợi, Hà Văn Tần, Tống Trung Tín, Vũ Thế Long, Đoàn Đức Thành và Đinh Khắc Thuận.

Trích từ "Những phát hiện về khảo cổ học", năm 1992, trang 256-256

Trích từ "Tạp chí Nghiên cứu lịch sử"

Viện Sử học 1997, số 2 (291) III-IV, trang 85-88.

CÓ MỘT HAY HAI TUỆ TĨNH?


Theo "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam"

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI