Có nên dùng cây chó đẻ nấu nước uống để giải khát trong mùa Hè? 25/04/2014 7:30:33 SA
Thuốc vườn nhà

Hỏi:

Tôi nghe một số người nói, mùa Hè hái cây chó đẻ nấu nước uống thay trà hàng ngày có tác dụng chống nóng, tăng cường sức khỏe và phòng được nhiều bệnh. Đề nghị "Thuốc vườn nhà" cho biết có đúng hay không? Uống lâu ngày có tác hại gì không?

Lê Kiều Oanh, Hà Nội

Đáp:

cây chó đẻ, chó đẻ răng cưa, trân châu thảo, diệp hạ châu, thập tự trân châu thảo, nhật khai dạ bế, âm dương thảo, lão nha châu, rút đất, khao ham, prak phle, Phyllanthus urinaria L., Phyllanthus cantoniensis Hornem., họ Thầu dầu (Euphorbiaceae)

Câu hỏi của bạn rất tiêu biểu. Thời gian gần đây, chúng tôi cũng nhận được nhiều cuộc điện thoại, hỏi về việc này.

Chó đẻ là loài cây mọc hoang khắp nơi, thường hay thấy nhất ở bờ ruộng, ven đường, vườn đất hoang, các sườn núi, ... Cây còn có tên là "chó đẻ răng cưa", "trân châu thảo", "diệp hạ châu", "thập tự trân châu thảo", "nhật khai dạ bế" (ngày mở đêm đóng), "âm dương thảo", "lão nha châu", "rút đất", "khao ham" (Tày), "prak phle" (Cămpuchia), ... tên khoa học là Phyllanthus urinaria L. (Phyllanthus cantoniensis Hornem.), thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).

Cây chó đẻ là một loại cỏ mọc hàng năm, cao chừng 30cm, thân gần nhẵn, mọc thẳng đứng, phân ra nhiều nhánh. Lá mọc so le, xếp 2 dãy sít nhau giống như một lá kép, phiến lá thuôn hình bầu dục, cuống rất ngắn. Hoa mọc ở kẽ lá, nhỏ, màu đỏ nâu, hoa đực mọc ở nách gần phía ngọn, hoa cái mọc ở phía dưới cành. Quả nang hình cầu mọc ở dưới lá, khi chín màu hồng, treo lủng lẳng như chuỗi hạt châu, do đó có tên là "diệp hạ châu" ("diệp" = lá, "hạ" = dưới, "châu" = hạt ngọc, nghĩa là hạt ngọc dưới mặt lá). Hạt ba cạnh, hình trứng, màu nâu nhạt, có vân ngang. Người ta thường nhổ toàn cây, hoặc cắt toàn bộ phần trên mặt đất, mang về làm thuốc. Có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa Hạ và mùa Thu. Thường dùng tươi, có khi phơi khô.

Theo Đông y: Cây chó đẻ có vị đắng, tính mát; vào 2 kinh Thủ thái âm Phế và Túc quyết âm Can. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, bình can minh mục (điều hòa chức năng gan, sáng mắt), lợi thủy, thoái hoàng (chống vàng da), giải độc, ... Dùng chữa viêm ruột, kiết lỵ, viêm gan truyền nhiễm, viêm thận phù thũng, viêm nhiễm đường tiết niệu, trẻ cam tích, mắt đỏ đau sinh màng mộng, các chứng ung nhọt và thũng độc không rõ nguyên nhân.

Liều dùng hàng ngày: 20-50g cây khô (40-100g tươi); dùng ngoài không có liều lượng.

Trong hệ thống phân loại thuốc Đông y, chó đẻ không thuộc loại nhóm thuốc bổ, mà được xếp trong nhóm thuốc "Lợi thấp thoái hoàng" (chống vàng da do thấp tà). Nói cách khác, chỉ nên sử dụng trong trường hợp có bệnh, chứ không nên nấu nước uống thường xuyên.

Đông y cổ truyền cho rằng: Chó đẻ là loại thuốc đắng mát, người "Dương hư thể nhược" (cơ thể suy nhược thể Dương hư) sử dụng cần hết sức thận trọng.

Kết quả nghiên cứu về tác dụng phụ của Đông dược những năm gần đây cho thấy, sử dụng lâu ngày cây chó đẻ có thể dẫn tới trạng thái bệnh lý có tên là "Hao khí tổn Dương". Người không chuyên về Đông y có thể nhận biết được trạng thái này qua các biểu hiện như mệt mỏi, da xanh xao, tinh thần uể oải, đầu choáng, mắt hoa; hoạt động một chút là vã mồ hôi (nhiều nhất ở trên đầu), thở gấp, hụt hơi, đôi khi phải há miệng để thở; buồn ngủ, tinh thần thiếu tập trung, khả năng tư duy giảm sút; chán ăn, đau bụng, ỉa chảy, ...

Tóm lại: Không nên dùng cây chó đẻ nấu nước uống giải khát thay trà.

Tuy nhiên, chó đẻ là loại cỏ chữa được nhiều chứng bệnh, nhất là những bệnh thường xuất hiện mùa Hè. "Thuốc vườn nhà" xin giới thiệu một vài cách sử dụng để bạn tham khảo:

    (1) Chữa mắt sưng đỏ, đau: Dùng cây chó đẻ tươi 40g, mã đề 20g, dành dành 12g; sắc nước uống trong ngày, liên tục 5-7 ngày.

    (2) Chữa kiết lỵ, ỉa chảy: Dùng cây chó đẻ tươi 80-100g, thêm 500ml nước, sắc còn 200ml; chia thành 2 lần uống vào buổi sáng và buổi tối; trẻ nhỏ giảm bớt liều. Thử nghiệm lâm sàng tiến hành tại một bệnh viện ở Phúc Kiến (Trung Quốc) cho thấy, trong số 36 ca có 12 ca hiệu quả rất rõ, 23 ca khỏi bệnh, 1 ca không có tác dụng, có người uống 2 lần đã khỏi.

    (3) Chữa viêm gan mạn tính do vi rus HBV: Dùng toàn cây chó đẻ 20g, gan lợn 200g băm nhỏ; nấu lên, uống nước đặc, uống trong nhiều ngày.

    (4) Chữa xơ gan cổ trướng: Lấy lá cây chó đẻ sao vàng, hạ thổ; sắc uống liên tục trong 5-7 ngày.

    (5) Chữa nhọt độc sưng đau: Chó đẻ một nắm, thêm vài hạt muối vào giã nát; chế nước đã đun sôi vào vắt lấy nước cốt uống, bã đắp lên chỗ đau (Theo "Bách gia trân tàng").

    (6) Chữa vết thương ứ máu: Lá và cành chó đẻ, mần tưới - mỗi thứ 1 nắm; tất cả đem giã nhỏ, thêm đồng tiện (nước tiểu bé trai) vào vắt lấy nước uống, bã đắp lên chỗ vết thương; nếu có điều kiện thì hòa thêm 8-12g bột đại hoàng vào càng tốt (Theo "Hoạt nhân toát yếu").

    (7) Chữa vết thương chảy máu: Lấy cành và lá chó đẻ răng cưa trộn với vôi giã nhỏ; đắp vào chỗ vết thương (Theo "Bách gia trân tàng").

    (8) Chữa lở loét, vết thương không liền miệng: Lá chó đẻ răng cưa, lá cây đuôi tôm (thồm lồm) - 2 thứ bằng nhau; thêm 1-2 nụ đinh hương vào giã nát; đắp vào vết thương (Theo "Bách gia trân tàng").

    (9) Bị chó dại cắn (tham khảo): Trường hợp chẳng may bị chó dại cắn mà ở xa cơ sở y tế, có thể nhổ 5-6 cây chó đẻ răng cưa tươi sắc với nước uống, đồng thời dùng cành lá chó đẻ giã nát cùng với cơm nguội, đắp vào chỗ vết thương (Theo "Trung dược đại từ điển").


Lương y HUYÊN THẢO